Căn bệnh giang mai là một trong những căn bệnh lý hiểm nguy có không ít bệnh nhân nhiễm phải. Đánh giá mức độ nguy hại của giang mai chỉ đứng dưới bệnh hiv/aids. Bệnh giang mai có rất nhiều biến chứng nguy hiểm. Người bệnh cần thiết nắm được các thông tin tổng quát nhất để có phương án chữa phù hợp.
Căn bệnh giang mai là gì
Giang mai (syphilis) là bệnh xã hội nguy hiểm lây qua đường tình dục do xoắn khuẩn treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) tạo nên. Ngoài ra dù ít nhưng vẫn có trường hợp truyền nhiễm từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh.
Giang mai là một bệnh lý đã có lịch sử lâu đời và có không ít tên gọi không giống nhau trong lịch sử. Căn nguyên gây nên bệnh giang mai có tên khoa học treponema pallidum. Xoắn khuẩn giang mai treponema pallidum có tác động trễ rãi và thực hành tổn thương cơ thể nặng nề. Người bệnh mắc giang mai có thể tùy theo rất nhiều lần con đường không giống nhau.
Nguyên nhân mắc bệnh giang mai
Xoắn khuẩn giang mai có thể tồn tại trong trong môi trường dịch và máu chứa dinh dưỡng. Khi tại môi trường bên cùng với chúng rất yếu ớt và mắc phải tiêu diệt dễ dàng bằng những dung dịch tẩy rửa thông luôn. Cho nên giang mai lây truyền dễ dàng nhất là thông qua quan hệ.
Giang mai cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc. Điều này là bởi xoắn khuẩn có tồn ở trong dịch ở thương tổn bệnh giang mai. Khi tiếp xúc trực tiếp đường máu, dịch thì xoắn khuẩn có thể theo đó mà xâm nhập cơ thể. Cho nên các hành động thân mật như hôn, chạm vào thương tổn giang mai là cực hiểm nguy.
Một số đồ vật có thể là nguồn gốc lây truyền giang mai. Khi người dùng đồ cá nhân có lưu lại dịch hay máu từ người mắc phải sẽ lây truyền giang mai. Điển hình như bàn chải, dao cạo, đồ lót… các đồ vật trung gian có thể sẽ là căn nguyên truyền nhiễm giang mai.
Hơn nữa, xoắn khuẩn giang mai là căn bệnh lý nguy hại do còn truyền nhiễm từ mẹ sang con. Thường xoắn khuẩn giang mai có thể lây vào tháng thứ 5 thai kỳ. Cùng với ra thì xoắn khuẩn giang mai còn truyền nhiễm từ mẹ sang con trong liệu trình sinh nở. Căn bệnh giang mai nếu lây truyền cho trẻ trong thai kỳ thì nguy cơ dị tật thai cực cao. Trẻ có thể mắc phải giang mai bẩm sinh do mẹ truyền nhiễm trong giai đoạn có bầu.
Biểu hiện bệnh giang mai
Bệnh nhân mắc giang mai nếu không trị sẽ phải trải qua 4 thời kỳ bệnh không giống nhau. Mỗi giai đoạn lại có biểu hiện tương ứng. Chỉ có giang mai giai đoạn 1 và 2 dấu hiệu rõ ràng. Giang mai tiềm ẩn là thời kỳ không có biểu hiện bệnh. Dưới đó là đến thời kỳ cuối của căn bệnh giang mai với rất nhiều biến chứng.
Săng giang mai:
Săng giang mai là dấu hiệu đặc trưng của người mắc phải giai đoạn 1. Săng là những vết loét nông ở vị trí bị tổn thương viêm giang mai. Thường gặp săng giang mai mọc ở bộ phận sinh dục, bề mặt săng có chứa dịch, đáy săng cứng và không bằng phẳng. Săng giang mai không gây đau ngứa nhưng có thể lan xoắn khuẩn giúp đối tượng không giống hoặc đến vị trí khác nếu trực tiếp chạm vào.
Sẩn giang mai và đào ban
Sẩn giang mai là các nhọt nước hay mọc trên khắp cơ thể ở bệnh nhân bị bệnh thời kỳ 2. Sẩn này luôn chứa dịch trong với rất nhiều lần xoắn khuẩn. Một số trường hợp sẩn giang mai có thể chứa mủ do người bệnh nghiện rượu. Sẩn không gây đau ngứa. Những đối tượng không mọc sẩn thì sẽ nổi ban đào. Ban đào màu hồng khi ấn vào thì tan đi còn khi thả ra lại có màu như cũ. Vị trí mọc sẩn, mọc ban đào luôn thường gặp nhiều lần ở chân tay, vai, ngực, bụng…
Củ giang mai/gôm giang mai
Củ giang mai thường gôm giang mai là các tổ chức hoại tử luôn xuất hiện ở người bị giang mai giai đoạn cuối. Củ giang mai khác với săng giang mai vốn lành tính và thường tự hết. Củ giang mai gây hoại tử, khó lành và nếu có trị được thì cũng để lại sẹo. Nếu có hiện trên da sẽ thấy củ giang mai lồi lõm không đồng đều.
Cùng với các triệu chứng trên thì người giang mai có thể gặp biểu hiện sưng hạch bạch huyết. Thường là hạch bạch huyết khu vực bẹn. Đôi khi trong giai đoạn tiềm ẩn thì biểu hiện giang mai liệu trình 2 là sẩn và đào ban có thể quay lại. Càng tiềm ẩn lâu thì khả năng giang mai lây lan càng giảm, nguy cơ gây ra càng tăng. Những hậu quả giang mai có thể gây tổn thương thần kinh, nội tạng, tim mạch…
Biến chứng căn bệnh giang mai
Căn bệnh giang mai có thể tạo nên biến chứng cực kỳ nguy hiểm. Những gây ra này chính là lý vì mà bệnh giang mai trở thành một trong những căn bệnh lý nguy hại nhất. Đánh giá giang mai chỉ đứng sau căn bệnh aids ở mức độ nguy hiểm. Những gây ra giang mai thường xuất hiện tại giai đoạn cuối. Và người bệnh có thể thuộc vào một trong số các dạng gây ra giang mai sau đây:
‍Giang mai thần kinh
Giang mai thần kinh là các tổn thương đến não và tủy sống, vốn là những cơ quan trung ương thần kinh. Khi có thương tổn giang mai thần kinh ở tủy sống bệnh nhân có thể gặp phải tác động khả năng đi lại vận động. Gặp phải thương tổn ở não thì mọi khả năng sẽ gặp phải tác động. Trong đó tập trung đặc biệt người bệnh bị rối loạn ý thức, rối loạn hành vi, suy giảm trí nhớ…
Nếu đừng nên chữa kịp thời thì nguy cơ đi lại khó khăn, thương tổn ý thức là hoàn toàn có thể. Nặng hơn sẽ là bại liệt, đột quỵ… thậm chí còn gây nên tử vong.
‍Giang mai tim mạch
Giang mai tim mạch là những thương tổn giang mai gây nên ở tim và hệ thống mạch máu. Thường gặp là các bệnh như u mạch máu, phình mạch máu… những hậu quả này là nguồn gốc tạo ra đột quỵ tại bệnh nhân mắc phải. Đột quỵ nếu cấp cứu kịp thời thì có thể sống, ngược lại có thể gây ra tình trạng bệnh nhân thực vật hay tử vong.
‍Củ giang mai/gôm giang mai
Như đã nói ở vừa rồi, củ giang mai, gôm giang mai là một tổ chức loét không lành tính. Người bệnh bị gây ra giang mai dạng này hay tạo nên tình trạng hoại tử. Nếu có triệt để thì cũng để lại sẹo tác động nặng nề tới tính mệnh. Củ giang mai mọc tại vị trí nào thì sẽ gây tổn thương tại vị trí đó.
Nếu củ giang mai hình thành tại các bộ phận nội tạng thì sẽ gây tổn thương nội tạng. Người bệnh nếu đừng nên khắc phục kịp thời thì sẽ có nguy cơ mắc phải những hậu quả hiểm nguy. Nặng nhất là tạo nên tử vong.
Có thể thấy giang mai là một căn bệnh lý hiểm nguy với rất nhiều biến chứng. Vì thế nếu không muốn mắc phải thì phải ngăn ngừa. Nếu lỡ mắc giang mai thì bắt buộc phải đi chữa trị kịp thời.